Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 83 năm ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930


I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI NĂM 1930 MỞ RA BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM:

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam:

a. Bối
cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:

- Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc
lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc
thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao
động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn
ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

- Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917, chủ nghĩa Mác-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời
đại mới – thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Đối
với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười Nga nêu tấm gương sáng trong
việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.

- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III) vào tháng 3-1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản v�
công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam,
Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin
và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

b. Bối
cảnh trong nước:

* Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công
xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến
thành thuộc địa nửa phong kiến.

- Về chính trị: thực dân Pháp áp đặt chính
sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam
thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ và thực
hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa
chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

- Về kinh tế: thực dân Pháp thực hiện chính
sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên;
xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ
chính sách khai thác thuộc địa.

- Về văn hóa: thực dân Pháp thực hiện chính
sách giáo dục thực dân và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong
xã hội Việt Nam.

- Dưới tác động của chính sách cai trị v�
chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu
sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông
dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa, một bộ
phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực
lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp
bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã
làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách
mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt
chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư
sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế
lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu
nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí
thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành
người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực dân, có khả năng tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

- Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam
lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều
bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ
bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã
nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống
dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt
ra hai yêu cầu: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền
dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế
quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong
kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

- Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các
phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi
nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương (phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo) đã chấm dứt ở cuối
thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (1896). Sang đầu thế kỷ XX
khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân,
tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm
cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư
sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc
khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.

- Các phong trào yêu nước trong khoảng thời
gian từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất
khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu
đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó
đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước.

2. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam:

- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường
cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức
là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương
hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã phát
hiện ra chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi
đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc
địa.

- Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Pari
và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.

- Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước
Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới
Hội nghị Vécxây.

- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc "Đề
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng
2/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế III (Quốc tế
Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành
người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử
trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận
cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan
trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

- Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ
đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị
điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra
sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính
lãnh đạo; đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường,
đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

- Người đã viết nhiều bài báo, nhiều tham
luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân
Pháp" và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền
phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên
truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm "Đường cách
mệnh" (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của
Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng
có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
chạy.

- Trong thời gian này, Người cũng tập trung
cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc
và gửi đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô cũ) và trường Lục quân
Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt
động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền
bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

- Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt
Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải
thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào
cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp
nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930. Hội nghị đã
quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản
Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản v�
Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành
lập Đảng.

- Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý
nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Hội
nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3/2 hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam
và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:

- Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản
ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam – theo một
đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị v�
hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả
tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với
cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử
cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc
ta.

- Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của
nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu
sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội.

- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam v�
việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con
đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính
là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo
phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường
lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con
đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này
là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn
dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại
giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm qua.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng
chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới,
đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng
Việt Nam
cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

II. 83 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG
THÀNH
- CHẶNG ĐƯỜNG VINH QUANG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:

1. Thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền (1930 – 1945):

- Đặc điểm của thời kỳ này là cách mạng Việt Nam đã
có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn,
đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.

- Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc
tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành toàn bộ chính quyền
về tay nhân dân: Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ
Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 – 1939) và cao trào giải
phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939 – 1945). Đó là quá trình
đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn gian khổ với những hy sinh to lớn của Đảng
và dân tộc ta. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành v�
phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo v�
sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc và chống phong
kiến không ngừng được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát triển sáng tạo lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng thuộc địa.

- Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành
chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn
đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm
cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân
tộc, đó là:

+ Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc v�
chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân
tộc và lợi ích giai cấp.

+ Quan hệ giữa các mục tiêu chiến lược lâu
dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giữa giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa
từng phần đến tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

+ Quan hệ giữa chiến lược và sách lược,
phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn các hình thức, phương pháp đấu tranh
phù hợp với từng điều kiện lịch sử cụ thể.

+ Quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng
đảng và xây dựng phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp
trong Mặt trận Dân tộc thống nhất.

+ Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại, giữa xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu
cao ý chí tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những
điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại.

+ Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy
lùi nguy cơ, tổ chức và sử dụng các lực lượng cách mạng.

- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ chế độ
thực dân và phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới – thời đại Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám dẫn đến sự ra đời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) -
Nhà nước công nông đầu tiên ở Châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong
lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của
chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ
XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết
của Đảng, do sự đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt
Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi. Người nhấn mạnh: Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động v�
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.

2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển
thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ (1945 – 1975):

- Những năm 1945 – 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua những khó khăn, thách thức nặng nề, chống
thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững
chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân
chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân
dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực
dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên
quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách
mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng
để đánh thực dân Pháp, lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân
nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa
cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Chúng ta đã chủ động chuẩn bị
những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp trên phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn 1 năm xây dựng chính
quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ
khi chưa có sự giúp đỡ trực tiếp từ bên ngoài.

- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước
ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chi Minh đã phát động
toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa
vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè
quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh
của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu ngày 7/5/1954. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện
Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của
thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế
giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội,
làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.

- Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng ta lãnh đạo
nhân dân ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc
điểm mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân
tộc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.

+ Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Giơnevơ, hất
chân thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của chúng. Dân tộc ta lại phải đương đầu với chủ nghĩa thực
dân mới của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ,
bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thực hiện đường lối chiến
tranh nhân dân được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương đầu với một
đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, chúng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến
công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị v�
miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát
huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt
đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng
lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm
chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm
quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.

+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc
trong điều kiện hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có
quan hệ mật thiết với nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản: giữa tiến hành
chiến tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu phương lớn với
tiền tuyến lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
giữa quy luật chiến tranh và quy luật xây dựng phát triển kinh tế; giữa đẩy
mạnh chiến tranh cách mạng ở nước ta với bảo vệ hòa bình thế giới; giữa lợi ích
dân tộc với thực hiện nghĩa vụ quốc tế…

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền
Bắc đã thu được những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi
viện sức người, sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục v�
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở
thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh
thắng; mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bè bạn
trên thế giới; tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước;
tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này.

3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ 1975 đến
nay:

Miền Nam
hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:

- Từ 1975 đến 1986:

+ Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn
khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành
hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

- Đảng đã tập trung lãnh
đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu
kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới,
việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã
bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan,
duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng
hoảng kinh tế – xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Trước những thách thức
của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm
tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc sau: Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 6, khóa IV (tháng 8/1979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày
13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP
ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng
hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng
9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của Đảng (tháng
12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Từ 1986 đến nay:

+ Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào
thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới
đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm v�
phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

+ Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ
sung và phát triển ngày càng hoàn thiện.

+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua 26 năm đổi
mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển. Đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận
của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện được
mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy
trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã
hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta
trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

III. NHỮNG THẮNG LỢI VĨ ĐẠI CỦA
NHÂN DÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SUỐT 83 NĂM
QUA VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

1. Những thành tựu vĩ đại:

83 năm xây dựng và trưởng thành, lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua
muôn ngàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại, đó là:

Thứ nhất: Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xóa bỏ chế độ thực
dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai: Thắng
lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh
thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thứ ba: Thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.

Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận
nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

2. Những bài học kinh nghiệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam:

Một là: Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là: Phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mặt trận dân tộc thống
nhất, nòng cốt là liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức.

Ba là: Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và hệ thống
chính trị, xây dựng Nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân.

Bốn là: Nêu cao
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại.

Năm là: Chú
trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

3. Một
số kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng:

Là Đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng
Việt Nam trong suốt 83 năm qua, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm quý báu
trong công tác xây dựng Đảng sau đây:

- Thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn và không
ngừng nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện tốt phương châm nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa l�
nền tảng tinh thần của xã hội.

- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng.

- Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới công tác xây dựng Đảng, phát huy dân chủ,
thực hiện đúng nguyên tắc, tập trung dân chủ và các nguyên tắc khác, giữ vững
kỷ cương, kỷ luật.

- Chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đủ bản lĩnh, chính trị, phẩm chất trí tuệ và năng lực hoạt động
thực tiễn.

- Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng.

- Đảng phải tăng cường và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.

- Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức
lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.

IV. DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, CHI BỘ CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN RA ĐỜI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN BÌNH
DƯƠNG LIÊN TIẾP GIÀNH THẮNG LỢI :

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bình
Dương rất tự hào về những đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà vào
trang sử vàng truyền thống của dân tộc. Hòa trong khí thế sôi nổi của phong
trào cách mạng những năm 1928-1929 và ảnh hưởng của ba tổ chức cộng sản: Đông
Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (9/1929) và Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn (1/1930), ngay từ năm 1930, trên đất Bình Dương có những chi bộ
Cộng sản đầu tiên ở Dĩ An (1/1930), Bình Nhâm (8/1930) … lần lượt ra đời. Từ
đó phong trào công nhân Bình Dương có bước phát triển mới. Phát huy truyền
thống hào hùng của cha ông, trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã cùng với đồng bào miền Nam và cả
nước bước vào các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Bằng trí thông minh,
lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân
dân trong tỉnh đã lập nên những chiến công vô cùng hiển hách ngay trong sào
huyệt của địch, trên các đường phố, trên đồng ruộng, trong các nhà máy, đồn
điền … góp phần bổ sung vào lịch sử đấu tranh của dân tộc những trang chói
lọi nhất. Những địa danh như: Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Bông Trang, Đất Cuốc … gắn
liền với những chiến công của quân, dân tỉnh Bình Dương và mãi mãi đi vào lịch
sử vẻ vang của dân tộc.

Kế thừa và phát huy những thành quả của tỉnh
Sông Bé trước đây, qua 16 năm tái lập, Đảng bộ và nhân dân Bình Dương đã đạt
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Những thành tựu đó đã chứng minh cho sự phát triển, trưởng thành v�
từng bước đưa kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển liên tục và toàn diện.

Năm 2012 là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ
IX, việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, tạo
tiền đề cho những năm tiếp theo của kế hoạch 5 năm 2011 – 2015. Trong bối cảnh
nền kinh tế thế giới diễn biến không thuận lợi, tăng trưởng kinh tế chậm lại,
lạm phát cao ở hầu hết các quốc gia tác động bất lợi vào nền kinh tế nước ta.
Chính phủ đã điều chỉnh chính sách tài chính, tiền tệ thắt chặt, cắt giảm đầu
tư công để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo
an sinh xã hội đã đem lại tác dụng tích cực, nhưng cũng phát sinh nhiều trở
ngại như: lạm phát cao, lãi suất tăng, thị trường tiền tệ và tỷ giá biến động,
ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống.

Trong điều kiện khó khăn đó, tỉnh đã tập
trung chỉ đạo các cấp, các ngành, các đơn vị triển khai thực hiện Kết luận
02-KL/BCT của Bộ Chính trị và Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, nhờ đó tình
hình kinh tế – xã hội của tỉnh tiếp tục có bước chuyển biến tích cực, kết quả
đạt được khá toàn diện trên các lĩnh vực, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng đều
giữ được mức tăng trưởng ổn định. Tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 12,5%. C
ơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp – dịch vụ – nông
nghiệp với tỷ trọng tương ứng 6
2% – 34,2% – 3,8%. GDP bình
quân đầu người ước đạt 44,2 triệu đồng (kế hoạch là 43 triệu đồng). Những kết
quả đạt được đã khẳng định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của tỉnh đề ra cho
năm 2012 là đúng hướng. Thủ tục hành chính và môi trường thu hút đầu tư tiếp
tục được cải thiện. Giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh an toàn
thực phẩm và phòng chống dịch được quan tâm chỉ đạo; hoạt động văn hóa, thể
thao diễn ra sôi nổi; hoạt động văn hóa xã hội tiếp tục chuyển biến; đảm bảo an
sinh xã hội và giải quyết việc làm, đời sống nhân dân tiếp tục được quan tâm.
Chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được giữ vững. Điều này thể hiện rõ sự
phấn đấu và nỗ lực vượt bậc của các cấp, các ngành, của lực lượng vũ trang
và các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế – xã hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Các giải pháp
hỗ trợ cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn chưa đạt hiệu quả cao. Công tác bảo vệ
môi trường còn nhiều hạn chế. Lĩnh vực văn hóa xã hội có những mặt chưa tương
xứng với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực vẫn chưa đáp
ứng kịp yêu cầu phát triển.

Nhìn lại chặng đường 16 năm qua, Đảng bộ Bình
Dương nhận thức sâu sắc hơn nguyên nhân của những thành công và yếu kém, của
những khó khăn, thách thức  đang đặt ra
trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh  lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010 – 2015), nhận thức
sâu sắc hơn về những đòi hỏi của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra,
Đảng bộ Bình Dương quyết tâm xây dựng các cấp bộ Đảng vững mạnh toàn diện cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm tăng cường đoàn kết, bảo đảm thống nhất ý chí
và hành động của toàn Đảng bộ; động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng nỗ lực
khắc phục khó khăn, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế – xã
hội, quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Trong đó chú
trọng các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ Tỉnh, quyết tâm tạo chuyển biến rõ rệt
về công tác xây dựng Đảng, để Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí, gắn bó mật thiết với nhân dân, có
phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng
lực.

Kỷ niệm 83 năm ngày thành lập Đảng, Đảng bộ
và nhân dân Bình Dương tự hào về những thành tựu đã đạt được của cách mạng nước
ta nói chung và Bình Dương nói riêng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ
Chủ Tịch kính yêu. Chúng ta vững tin bước sang năm mới 2013 với lòng quyết tâm
và nghị lực lớn của một dân tộc anh hùng, nghìn năm văn hiến, của một Đảng lãnh
đạo dày dạn, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân và có sức mạnh vô địch là khối
đại đoàn kết toàn dân.

BAN
TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét