Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Hiệp định Paris


Normal
0

false
false
false

MicrosoftInternetExplorer4

st1:*{behavior:url(#ieooui) }

/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:”Table Normal”;
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:”";
mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt;
mso-para-margin:0in;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:”Times New Roman”;
mso-ansi-language:
mso-fareast-language:
mso-bidi-language:}

Đúng 40 năm
trước, ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình
ở Việt Nam được ký kết là kết quả thắng lợi hết sức quan trọng của nhân dân ta
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

 Quang cảnh
Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Bốn thập kỷ
đã trôi qua nhưng hình ảnh các đoàn đàm phán vẫn luôn in đậm trong ký ức những
nhân chứng lịch sử, đồng thời đây cũng là một dấu son không bao giờ phai mờ
được ghi vào lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam thời
đại Hồ Chí Minh nói riêng.

Thắng lợi
ngoại giao to lớn

Sau thất
bại Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ buộc phải ngừng ném bom từ Ninh Bình trở ra phía
Bắc và ngồi vào bàn đàm phán với Việt Nam
tại Paris. Cuộc
đàm phán giữa đoàn đại biểu Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bắt đầu ngày 13-5-1968
tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở đường Kleber, Paris đánh dấu một giai đoạn mới
của cuộc chiến tranh Việt Nam, đọ sức trên mặt trận ngoại giao, mở ra cục diện
"vừa đánh vừa đàm".

Nhớ lại
những ngày tháng đấu trí cam go, quyết liệt ấy, ông Nguyễn Khắc Huỳnh, nguyên
Đại sứ, nguyên thành viên Đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa
chia sẻ, đó là một trong những hoạt động ngoại giao to lớn, quan trọng của Việt
Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, thu hút sự chú ý của dư luận thế
giới.

Cuộc đàm
phán thể hiện sự đối đầu toàn diện về chiến lược và chiến thuật, bản lĩnh v�
trí tuệ, đạo lý và pháp lý giữa Việt Nam và Mỹ. Sự kết hợp khôn khéo chiến lược
"vừa đánh vừa đàm" của Việt Nam buộc Mỹ phải ra lệnh chấm dứt mọi hành động ném
bom đánh phá miền Bắc để đi tới đàm phán bốn bên.

Ông Huỳnh bồi
hồi kể lại, mãi đến ngày 27-10-1968, hai bên mới thỏa thuận được tất cả các vấn
đề và đến 31-10-1968, Johnson mới ra lệnh chấm dứt ném bom miền Bắc. Lúc đó H�
Nội chỉ thị sang cuộc họp bốn bên sẽ không tiến hành trước ngày 6-11-1968.

Do đó, hai
đoàn (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) chuẩn bị
hai bản tuyên bố ngắn.

Theo thông
lệ, vào phiên họp, đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ưu
tiên phát biểu trước. Nhưng lần này, bắt đầu vào phiên họp Trưởng đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy đã đứng lên tuyên bố bỏ
phiên họp.

Ngay sau
đó, không một phút chần chừ, Trưởng đoàn Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam
là bà Nguyễn Thị Bình cũng đứng lên đồng tình ủng hộ ý kiến hủy bỏ phiên họp.
Hai đoàn ra về nhanh chóng, điều đó làm cho đoàn Mỹ hoàn toàn bất ngờ không kịp
phản ứng.

Đây có lẽ
cuộc họp ngoại giao ngắn nhất trong lịch sử, ông Huỳnh cho biết.

Ngày đó,
chỉ là một cán bộ bình thường tham gia thành viên của đoàn đàm phán nhưng mỗi
khi nhớ lại, ông Nguyễn Khắc Huỳnh vẫn cảm thấy tự hào đã được đóng góp công
sức cho thời khắc lịch sử ấy, Hiệp định Paris được ký kết là thắng lợi ngoại
giao sáng chói, mở ra một chương mới cho nền ngoại giao Việt Nam và cả vận mệnh
đất nước.

Qua đàm
phán Paris, ngoại giao Việt Nam tiếp thu
thêm những ý tưởng mới, hiểu thêm thế giới và các quan hệ quốc tế, tạo thuận
lợi cho công tác ngoại giao sau này.

Bằng chất
giọng trầm ấm, tuy hơi chậm do tuổi tác nhưng vẫn toát lên khí chất của một cán
bộ ngoại giao kỳ cựu, như đang sống lại những thời khắc lịch sử ấy, ông bộc
bạch: “Đến ngày 20-10-1972, hai bên đạt thỏa thuận cuối cùng, dự định ký
Hiệp định ngày 31-10-1972. Với văn bản Hiệp định hai bên đã thỏa thuận, Việt Nam đã đạt được các mục tiêu đề ra đó là Mỹ chấm
dứt chiến tranh và rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Tôi và các
thành viên trong đoàn đều không thể nào ngủ được vì vui sướng, bởi điều mình
chờ đợi rất lâu, nay đã đến. Lúc đó, chỉ muốn báo tin ngay về cho người thân để
thốt lên: Việt Nam
sắp hòa bình rồi”.

“Tù binh” trong vấn đề tù
binh tại đàm phán Paris

Trong văn
bản Hiệp định Paris,
vấn đề tù binh, nhất là tù binh chính trị trở thành một trong các vấn đề đấu
tranh gay gắt nhất. Các quy định chính của Hiệp định Paris
năm 1973 đã đáp ứng đúng những yêu cầu cơ bản nhất của nhân dân Việt Nam. Mỹ phải
chấm dứt chiến tranh xâm lược ở cả hai miền Việt Nam
và rút hết quân đội về nước, song song với việc Việt Nam thả hết tù binh Mỹ.

Với tư cách
là người được giao nhiệm vụ phụ trách vấn đề quản lý tù binh Mỹ, ông Trần Tuấn
Anh, nguyên Đại sứ, nguyên thành viên Đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tại Hội nghị Paris, kể lại: “Khi Hiệp định Paris diễn ra, tôi không phải
là người đầu tiên đi theo đoàn mà ở lại nhận nhiệm vụ phụ trách vấn đề tù binh
ở Hà Nội. Tháng 9-1969, tôi mới sang Paris
để nhập vào đoàn đàm phán theo dõi tình hình tù binh.

Sau thời
gian 9 tháng, đoàn Việt Nam
nhận định hội nghị còn có thể kéo dài, ít chuyển biến, thêm nữa vấn đề tài
chính của đoàn lúc này có khó khăn nên tôi đã trở về nước. Đến tháng 11/1972
tôi trở lại Paris
và trực tiếp tham gia vào vấn đề đấu tranh trao trả tù binh”.

40 năm đã
qua đi, nhưng ký ức xưa vẫn mãi mãi khắc ghi trong tâm khảm của những nhân
chứng lịch sử như ông Trần Tuấn Anh. Những lý luận đấu tranh cứng rắn, chắc
chắn và quyết liệt, chặt chẽ của Việt Nam về vấn đề tù binh trở thành một
trong những giải pháp buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh.

Chính sách
nhân đạo đối với tù binh Mỹ của Việt Nam đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, nhất l�
từ tháng 5-1969, khi chính quyền Nixon khuấy lên rất mạnh vấn đề này. Những
hoạt động chủ yếu của chính quyền Nixon dựa vào xuyên tạc và vu cáo.

Nhưng thời
gian đầu, họ đã lợi dụng hệ thống thông tin rộng lớn và hiện đại, nhất là vào
sự ít hiểu biết về Việt Nam
của nhân dân và dư luận Mỹ và đánh lừa được khá nhiều người. Do đó, cuộc đấu
tranh của Việt Nam
về vấn đề tù binh diễn ra rất gay gắt.

Mục tiêu
đấu tranh của Việt Nam là làm thất bại âm mưu thủ đoạn của Mỹ, đề cao chính
sách nhân đạo của Việt Nam đối với tù binh Mỹ, làm nổi bật tính chất phi nghĩa
của cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

Điều đó đã
làm cho những luận điệu xuyên tạc của Nixon ngày càng mất tác dụng, đồng thời
tạo thuận lợi cho lĩnh vực đấu tranh của Việt Nam trong vấn đề tù binh. Chính vì
vậy, ở thời điểm đó, các hãng thông tin của Mỹ và dư luận báo chí nhận xét:
“Chưa bao giờ Mỹ lại có vẻ bất lực, trơ trụi như bây giờ”,
“chính quyền này tự đào hố chôn mình”, “Nixon đã trở thành tù
binh của vấn đề tù binh”… ông Trần Tuấn Anh kể.

Khi Hiệp
định Paris 1973 bắt đầu có hiệu lực, Việt Nam
trao trả tất cả tù binh Mỹ bị bắt vào đúng các thời điểm mà các bên thỏa thuận.
Điều đó đã trở thành sức mạnh, tạo sức ép lớn chống lại ý đồ của phía Mỹ tìm
cách dây dưa việc rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam, nhất là chống lại âm mưu
của chính quyền Sài Gòn gây ra những khó khăn, trục trặc để không trao trả hết
tù binh của Việt Nam.

Ngày 29-3-1973,
diễn ra đợt cuối cùng Việt Nam trao trả tù binh cho Mỹ, đồng thời cùng diễn ra
đợt cuối cùng quân đội Mỹ rút hết khỏi miền Nam, đánh dấu việc hoàn thành điều
khoản quan trọng nhất của Hiệp định Paris.

Nhờ khéo
vận dụng nhiều chính sách và sách lược phù hợp với tình thế ta-địch, với tình
hình và luật pháp quốc tế nên Việt Nam đã có những thành công lớn trong việc
dùng vấn đề tù binh, trước hết là vấn đề phi công Mỹ bị bắt, trong đấu tranh
chính trị và đàm phán với Mỹ, góp phần làm phân hóa nội bộ Mỹ, tạo sức ép trong
dư luận và chính giới Mỹ, tạo thế mạnh khi đàm phán kết thúc chiến tranh, buộc
Mỹ chấp nhận ký kết Hiệp định Paris kết thúc chiến tranh và gắn thời hạn rút
hết quân Mỹ với thời hạn thả hết tù binh.

Vấn đề tù
binh chỉ là một vấn đề cụ thể, một bộ phận của giải pháp. Tuy nhiên đấu tranh
thắng lợi trên vấn đề này cũng thể hiện trí tuệ và nghệ thuật đàm phán của Việt
Nam
, ông Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.

Trận chiến phối hợp giữa quân sự v�
ngoại giao

Những ngày
này, thành công của Hiệp định Paris 40 năm về trước, một lần nữa lại bừng lên,
vẹn nguyên trong ký ức của nguyên Đại sứ, nguyên Thư ký Phái đoàn Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trần Viết Tân.

Ông nhớ
lại: “Vào khoảng đầu tháng 12-1969, ông Nguyễn Ngọc Sơn, Vụ trưởng Vụ Tổ
chức cán bộ Bộ Ngoại giao gọi tôi đến phòng làm việc để giao nhiệm vụ mới: Thư
ký phái đoàn Chính phủ (phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Tôi nghĩ đây l�
niềm vinh dự lớn nhưng là một nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề. Sau đó ít
ngày, tôi theo đoàn cố vấn Lê Đức Thọ đến Paris.

Đây l�
chuyến đi nước ngoài đầu tiên đầy ấn tượng, mọi việc đều mới lạ và bỡ ngỡ. Tôi
đã nỗ lực cao, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của những cán bộ ngoại giao đi
trước nên sớm thích nghi với công việc.

Tôi được bố
trí vào tổ ngoại giao do đồng chí Phan Hiền, Ủy viên Phái đoàn phụ trách (sau
là Bộ trưởng Bộ Tư Pháp) với nhiệm vụ hàng ngày là theo dõi và tập hợp các phát
biểu của những nhân vật chính quyền, Quốc hội Mỹ cả hai phái "diều hâu" và "bồ
câu" cùng những vị đứng đầu các nước thuộc phe Mỹ liên quan đến giải pháp cuộc
chiến tranh Việt Nam. Những tư liệu này để cung cấp cho nghiên cứu giải pháp
đàm phán với Mỹ″…

Thời gian
làm Thư ký Phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Paris, có một sự kiện ấn
tượng mà ông Tân nhớ như in: “Đó là đầu năm 1971, Mỹ Ngụy mở chiến dịch
lấy tên Lam Sơn 719 tại đường 9 Nam Lào nhằm đánh chặn sự chi viện từ hậu
phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam. Quân Việt Nam đánh trả quyết liệt, giành
thắng lợi lớn.

Lúc này tại
Paris, Trưởng phái đoàn Việt Nam nhận định địch thua nặng ở chiến trường, tại
phiên họp bốn bên ngày hôm sau sẽ có phản ứng, có thể phía Mỹ sẽ chuyển văn
bản, xuyên tạc tình hình, vu cáo Việt Nam và chuyển qua đường thư ký. Trưởng
Đoàn Việt Nam
chủ trương không nhận văn bản của phía Mỹ.

Đúng như dự
đoán, ngày hôm sau, vào hội nghị, trước lúc Trưởng đoàn Mỹ phát biểu, Thư ký Mỹ
David Angel ngồi đối diện đẩy văn bản sang phía tôi. Như một phản ứng tự nhiên,
tôi lập tức đẩy trả lại. Việc “đẩy-trả” diễn ra 2-3 lần. Nhận thấy
cách đó không xong, David Angel đã phát biểu phê phán thư ký đoàn Việt Nam không nhận
văn bản.

Sự việc
trên cho thấy phía Việt Nam
đã phán đoán rất đúng âm mưu của đối phương. Điều đó cũng thể hiện cách xử lý
linh hoạt nhưng kiên quyết của phái đoàn Việt Nam trong đấu tranh giành từng chút
thắng lợi, để đạt được thắng lợi cuối cùng trên bàn đàm phán. Ông Trần Viết Tân
tâm đắc: “Đây là trận chiến phối hợp đẹp mắt giữa quân sự và ngoại giao,
giữa chiến trường và bàn hội nghị !”.

Theo TTXVN



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét