Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

TAND huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương: Xét xử sơ thẩm chưa ...

Nội dung vụ kiện

Phần đất 38.670m² (đo đạc thực tế 43.670m²) lô K3, thửa số 28, tờ bản đồ số 17, ấp 1, xã Hội Nghĩa, huyện Tân Uyên được Nông trường Cao-su Hội Nghĩa (Công ty Cao-su Phước Hòa) giao cho ông Phan Sơn 18.790m²; ông Nguyễn Văn Minh 6.260m²; ông Nguyễn Thái Lý 4.100m²; ông Nguyễn Văn Tốt 7.060m² và sử dụng làm đường cách li 2.250m² (theo quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 6/1/1989 của UBND tỉnh Sông Bé cũ). Thực tế, ông Nguyễn Văn Tốt quản lí (thông báo số 371/TB-UBND, ngày 2/12/2011 của UBND tỉnh Bình Dương).

Ngày 28/6/2001, UBND xã Hội Nghĩa kí hợp đồng cho ông Trương Văn Chiêu và bà Đỗ Thị Thu thuê toàn bộ diện tích đất trên, thời hạn 5 năm; chính quyền (xã, huyện) lấy lí do, đất do Công ty Cao-su Phước Hòa đã bàn giao UBND xã Hội Nghĩa quản lí (thuộc quỹ đất công ích) và ông Nguyễn Văn Tốt đã chuyển nhượng thành quả lao động trên đất cho ông Trương Văn Chiêu để cho rằng ông Nguyễn Văn Tốt đã chấm dứt quyền quản lí sử dụng đối với diện tích đất 43.670m², UBND huyện Tân Uyên không cấp GCNQSDĐ 43.670m2 cho ông Tốt. Ông Tốt khởi kiện hành vi hành chính này của UBND huyện Tân Uyên.

Tòa án công nhận giao dịch trái luật

Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000 về thi hành Luật Đất đai quy định thẩm quyền cho thuê đất; Điều 24 Luật số 25/2001/QH10 ngày 29/6/2001 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2001: "UBND xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn (trước ngày 1/10/2001 UBND cấp xã, phường, thị trấn không có thẩm quyền cho thuê đất công ích của xã). Như vậy, UBND xã Hội Nghĩa lập hợp đồng cho ông Chiêu, bà Thu thuê đất thời điểm ngày 28/6/2001 là trái thẩm quyền cho thuê đất. Mặt khác, hợp đồng cho thuê đất ngày 28/6/2001 giữa Chủ tịch UBND xã Hội Nghĩa với ông Chiêu, bà Thu thể hiện vô hiệu vì vi phạm về điều kiện giao đất đang có người sử dụng cho người khác (Điều 21) và vi phạm về thẩm quyền cho thuê đất (Điều 24) Luật đất đai 1993. Nhưng HĐXX Tòa án cấp sơ thẩm đã công nhận hợp đồng này.

Tòa án "quên" cả luật!

Tòa án cấp sơ thẩm đã không xác định được các quy định của pháp luật hiện hành về việc cấp GCNQSDĐ cho người đang sử dụng đất ổn định nhưng không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003; đã "quên" quy định tại khoản 4 Điều 50 Luật Đất đai 2003, điểm a khoản 2 Điều 14 Nghị định 84/2007/NĐ-CP: Trường hợp người sử dụng đất không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai 2003 nhưng đã sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993 thì vẫn được cấp GCNQSDĐ.

 Vườn điều của ông Nguyễn Văn Tốt trên phần đất 43.670m2 đất thửa 28 tờ bản
đồ 17 (lô K3 cũ) tại ấp 1, xã Hội Nghĩa, huyện Tân Uyên.Theo Luật Đất đai năm 1987 (đã hết hiệu lực từ ngày 15/10/1993) thì Nông trường Cao-su Hội Nghĩa không có thẩm quyền giao đất. Tuy nhiên theo khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì chỉ những diện tích đất do lấn, chiếm và đất được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 1/7/2004 trở về sau mới không được cấp giấy chứng nhận và bị thu hồi toàn bộ diện tích. Biên bản số 38/NN/NT ngày 22/6/1992 của Nông trường Cao-su Hội Nghĩa không phải là quyết định giao đất nên không được coi là một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai 2003. Trong khi, ông Tốt đã sử dụng đất từ tháng 6/1992, có đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ theo quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai 2003; và không phải nộp tiền sử dụng đất theo điểm a khoản 2 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 được cấp giấy chứng nhận. Như vậy, cấp sơ thẩm không có cơ sở khi cho rằng ông Tốt không được cấp GCNQSDĐ vì Nông trường Cao-su Hội Nghĩa không có thẩm quyền giao đất; và, ông Tốt không có giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 là trái với điểm a khoản 2 Điều 14, khoản 3 Điều 15 Nghị định 84/2007/NĐ-CP và khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai 2003.

Tòa án cố ý bỏ qua nhiều chứng cứ, tình tiết quan trọng của vụ án

Một là, Điều 3 quyết định số 4246/QĐ-UB ngày 30/9/1995 của UBND tỉnh Sông Bé (cũ), giao UBND huyện Tân Uyên: Đối với đất các hộ dân đã sử dụng đất ổn định: "Tiến hành cho đăng kí, thống kê và xét duyệt cấp GCNQSDĐ". Thực tế, phần đất trên ông Tốt đã sử dụng ổn định từ tháng 6/1992, đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ theo quyết định 4246/QĐ-UB của UBND tỉnh Sông Bé, nhưng UBND huyện Tân Uyên không thực hiện.

Hai là, biên bản thẩm định tại chỗ ngày 11/12/2012 của Tòa án đã xác định toàn bộ cây trồng và công trình tài sản của ông Tốt trên đất được tạo dựng từ năm 2001 đến nay. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại quy kết mâu thuẫn, vô căn cứ rằng: "Quyền và nghĩa vụ của ông Tốt đối với thửa đất nêu trên không còn tồn tại từ năm 2001".

Ba là, điều kiện và thủ tục hoán đổi đất: UBND cấp xã không có quyền hoán đổi đất (Điều 5, Điều 6 Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999).

Bốn là, Tòa án cấp sơ thẩm không buộc UBND huyện Tân Uyên đưa ra chứng cứ thể hiện việc ông Tốt có lập hợp đồng thuê đất công ích của xã Hội Nghĩa.

Dư luận trông chờ bản án phúc thẩm khách quan, đúng pháp luật!

Chính Hạnh

Article source: http://vtc.vn/2-374735/xa-hoi/tai-nan-tham-khoc-4-nguoi-thuong-vong.htm



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét