Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

"Điện Biên Phủ trên không" giống như trận Stalingrat


Các nh�
nghiên cứu Nga nhận định: "Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không" giống như trận
Stalingrat thời chiến tranh Vệ quốc.

Phân tích
về ý nghĩa của chiến thắng lịch sử "Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không", các nh�
nghiên cứu lịch sử, các nhà Việt Nam học người Nga đều có chung nhận định:
chiến thắng này đã góp phần quyết định vào việc buộc Mỹ phải ký Hiệp định Hòa
bình Paris với những điều kiện của Việt Nam. Và xa hơn, đây chính là bước ngoặt
lịch sử để đi đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của nhân dân Việt Nam.

Pháo đài bay B.52 – Át chủ bài gãy cánh

Nói đến
chiến thắng lịch sử của trận chiến "Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không" của Việt
Nam, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự và
Việt Nam học của Nga phân tích rằng, thật đúng khi gọi trận chiến trên
bầu trời Hà Nội là "Điện Biên phủ trên không" và họ còn khẳng định rằng: "H�
Nội – Điện Biên Phủ trên không" của Việt Nam giống như trận Stalingrat của Liên
Xô, Nga thời chiến tranh Vệ quốc.

  Nhà Việt Nam
học Kobelev (phải) và  nhà nghiên cứu
Việt Nam Varonhin.
Nhà Việt
Nam học Evghenhi Kobelev, người có khá nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam
và đã xuất bản nhiều cuốn sách về Việt Nam, về quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga
nhận định: "Tôi phải nói rằng, ai đó đã gọi rất đúng trận đánh trên bầu trời H�
Nội tháng 12 năm ấy là "Điện Biên phủ trên không". Qua nghiên cứu, tôi thấy năm
1954 cũng diễn ra cuộc đàm phán Hòa bình Geneva và Hiệp định Hòa bình đó cũng
chỉ được ký kết khi quân Pháp đã thua trong trận Điện Biên Phủ".

Cũng rút ra
kết luận đó, nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu Việt Nam Annatoli Varonhin bổ sung:
"Lịch sử đã lặp lại khi vào năm 1972, trên bầu trời Hà Nội Mỹ đã phải ký kết
một Hiệp định Hòa bình cho Việt Nam.
Bởi vậy, ý nghĩa của chiến thắng năm 1972 trên bầu trời Hà Nội không chỉ l�
việc ký kết một Hiệp định chấm dứt bắn phá, rút quân khỏi Việt Nam mà còn lớn
hơn, để đến năm 1975 là hoàn toàn kết thúc chiến tranh. Bởi vậy có thể nói,
chiến thắng năm 1972 không chỉ có ý nghĩa kết thúc chiến tranh phá hoại của Mỹ
ở miền Bắc, mà nó còn góp phần đưa đến thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh
ở Việt Nam".

Nhà nghiên
cứu Việt Nam Varonhin còn kể thêm câu chuyện mà ông từng chứng kiến khi đang
công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô để khẳng định một ý
nghĩa lịch sử quan trọng mà nhiều nhà nghiên cứu đã ví "Điện Biên phủ trên
không" của Việt Nam là Stalingrat của Liên Xô. Đó là vào cuối năm 1972, khi
Liên Xô tổ chức lễ kỷ niệm trọng thể tròn 50 năm ngày thành lập Liên bang Cộng
hòa XHCN Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô), đã có khoảng 70 đoàn đại biểu đến từ các
nước, trong đó có đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Chủ tịch Quốc hội
Trường Chinh dẫn đầu.

Trong thời
gian ở thăm Liên Xô dự lễ kỷ niệm, Chủ tịch Trường Chinh đã đề nghị được đi
thăm Stalingrat và Đảng Cộng sản Liên Xô cũng đã tổ chức cho đoàn đi thăm. Với
sự việc này, ông Varonhin nhận xét: "Điều này rất dễ hiểu, là bởi vì lúc đó
cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang rất ác liệt và dường như đồng chí muốn có dịp
học hỏi các chiến sỹ Liên Xô về kinh nghiệm chiến đấu đánh tan Phát-xít Đức vào
năm 1945, trong đó trận Stalingrat đóng một vai trò quyết định".

Nhiều công
trình nghiên cứu, nhiều bài báo và cả các cựu chuyên gia quân sự Liên Xô từng
sang Việt Nam
thời kỳ những năm 1965 – 1975 khi nói về chiến thắng "Điện Biên phủ trên không"
cũng phân tích rất nhiều về ý nghĩa này. Họ đánh giá tình hình chiến cuộc lúc
bấy giờ trong bối cảnh của nước Mỹ trước và sau cuộc bầu cử Tổng thống; rồi
diễn biến của cuộc đàm phán về Hiệp định Hòa bình cho Việt Nam ở Paris…
Tất cả đều khẳng định chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không" của
Việt Nam
đã buộc Mỹ phải ngồi lại vào bàn đàm phán và chấp nhận ký Hiệp định hòa bình.
Đây là một bước ngoặt quyết định.

Nhận định
về ý nghĩa của chiến thắng, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra những đánh giá
khá toàn diện về nguyên nhân dẫn tới thắng lợi ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với
nhà Việt Nam
học Varonhin, đó là kết quả của cả ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao.
Ông phân tích: "Theo đánh giá của chúng tôi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một
nhận định rất tuyệt vời trước đó là "nhất định Mỹ sẽ ném bom Hà Nội…".

Chính bởi
thế mà hành động của Mỹ leo thang đánh phá Hà Nội trong một cuộc tập kích chiến
lược đã không khiến người Hà Nội bất ngờ. Lãnh đạo Việt Nam đã có những kế hoạch rất toàn
diện cả về chính trị, ngoại giao và kế hoạch quân sự để thiết lập một tình
huống cho cuộc chiến đấu đánh trả. Tuyến hoạt động này đã được triển khai rất
tốt và đã giành chiến thắng cuối cùng bằng chính các mặt trận chính trị, quân
sự và ngoại giao.

Mặc dù
trong những năm chiến tranh chống Đế quốc Mỹ, Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng
đã được trang bị những loại vũ khí mới tốt hơn nhiều, nhưng quan trọng là tinh
thần đấu tranh chính trị cũng đã được trang bị rất tốt để họ hiểu họ chiến đấu
vì cái gì, tình hình lúc đó ra sao, họ biết rằng, cuộc chiến đấu của nhân dân
Việt Nam đang được cả thế giới ủng hộ, nhất là cuộc chiến đấu chống quân Mỹ xâm
lược… Chúng tôi cũng đã dõi theo rất chăm chú bước ngoặt này cũng như suốt tiến
trình của cuộc chiến tranh Việt Nam".

chiến thắng
của nhân dân Việt Nam chống Đế quốc Mỹ trên bầu trời Hà Nội, theo phân tích của
các nhà Việt Nam học Nga đã giáng một đòn chí mạng và "niềm tự hào" của không
lực Hoa Kỳ. Bởi trước đó, người Mỹ chưa từng và không bao giờ nghĩ những "siêu
pháo đài bay" của họ lại bị bắn hạ bởi lực lượng phòng không – không quân của
một quân đội còn chưa thể sánh được với họ về các trang bị tối tân nhất. Quân
và dân thủ đô Hà Nội, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã làm cho Đế Quốc Mỹ không
thể mãi tự cho mình là kẻ "bất khả chiến bại".

Nhà Việt Nam học Kobelev phân tích: "Có một bình luận đã
nói thế này: "Việt Nam,
với sự giúp đỡ của Liên Xô đã xây dựng được một hệ thống phòng thủ tên lửa mạnh
và đã làm nên những điều chưa từng có trong một cuộc chiến tranh nào trước đó".

Tôi muốn
chứng minh điều này bằng một vài con số sau: Trong cuộc chiến tranh thế giới
thứ hai, khi Mỹ thực hiện 1.000 chuyến bay thì bị mất 9 chiếc máy bay, tại
Triều Tiên Mỹ mất 4 chiếc. Ngược lại ở Việt Nam, Mỹ đã mất tới 18 máy bay cho
1.000 chuyến bay. Đặc biệt riêng trong 12 ngày đêm của tháng 12-1972, với trận
"Điện Biên Phủ trên không" thì khi thực hiện 1.000 chuyến bay Mỹ mất tới 34
chiếc máy bay. Đó là những điều chưa từng xảy ra trong các cuộc chiến tranh
khác".

Bằng những
tinh thần quả cảm của mình, nhân dân Việt Nam
đã khiến cả thế giới ngưỡng mộ, đứng về cùng một phía với cuộc đấu tranh chính
nghĩa của Việt Nam.
Ông Varonhin nhận định: "Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã trở thành tâm điểm chính trị
mà cả thế giới dành sự quan tâm. Thời đó có nhiều tiếng nói đã ủng hộ Việt Nam v�
chống Mỹ rất mạnh mẽ. Người đồng nghiệp của tôi đây là ông Kobelev đã viết cuốn
sách "Việt Nam, tình yêu và nỗi đau của tôi", trong đó thể hiện rất chân thực
tâm trạng và tình cảm của nhân dân trên toàn thế giới cũng như nhân dân Mỹ
hướng về và ủng hộ nhân dân Việt Nam. Và cũng từ đó mà ở Mỹ đã dấy lên phong
trào chính trị đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh. Họ lên án rằng, việc Mỹ đem bom hủy
diệt Hà nội, Việt Nam
là một hành động phi nghĩa".

Nhà Việt
Nam học Kobelev cũng bổ sung: "Tôi đã từng tham dự nhiều hội nghị quốc tế được
tổ chức ở khắp nơi như: Paris, Rome, Praha, Moscow, Hà Nội…Tham gia các hội
nghị này là rất nhiều đại biểu với những tư tưởng khác nhau nhưng khi bàn đến
việc ủng hộ Việt Nam thì tất cả đều giơ tay đồng thanh "Việt Nam, chúng tôi ủng
hộ các bạn". Tôi cảm thấy rất vui khi có mặt ở các hội nghị ấy và được nghe
những tiếng hô "Việt Nam
– Hồ Chí Minh".

Cuối cùng,
nói về bài học rút ra từ thắng lợi của trận "Điện Biên phủ trên không", các nh�
Việt Nam học đã rất thống nhất khi khẳng định rằng, phải biết kết hợp nhiều yếu
tố mà trong đó ngoại giao giữ một vị trí rất quan trọng, rất cần phát huy trong
thời đại hôm nay.

Nhà Việt Nam học
Varonhin phân tích: "Chúng ta đã có mối quan hệ rất chặt chẽ trên nhiều lĩnh
vực, nhưng tôi có thể nói rất nhiều về quan hệ trên mặt trận ngoại giao. Đây
chính là một đóng góp to lớn vào thắng lợi chung. Chúng ta rất cần gìn giữ
truyền thống này và thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa. Để làm được điều đó, chúng ta rất
cần phải thường xuyên nhắc lại những truyền thống đó. Đây, hôm nay chúng ta
đang nói về chiến thắng "Điện Biên phủ trên không" và sắp tới thì chúng ta lại
nói về "40 năm ký Hiệp định HB Paris"…
là những yếu tố quan trọng trong ngoại giao.

Nhưng nếu
bảo chỉ là thành công ngoại giao của Việt Nam thì chưa đủ, đó còn là tổng hợp
nhiều yếu tố khác nữa, trong đó có sự đoàn kết của toàn thế giới dành cho Việt
Nam. Trong ngoại giao cũng phải nói đến ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhân
dân tạo nên dư luận xã hội, mà trong đó có cả công việc của báo chí, có cả vai
trò của các nghị sĩ… Việt Nam
đã giành được chiến thắng cũng chính là bởi đã tập hợp được những sức mạnh này.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói một câu rất nổi tiếng là phải biết "kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại". Tất nhiên thời đại ngày nay cũng
có những cái không giống thời đại của 40 năm về trước, nhưng bài học về kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại mà Hồ Chí Minh đã đưa ra l�
phương châm bất hủ mà chúng ta rất đáng học tập".

Chiến thắng
"Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không" của quân đội và nhân dân Việt Nam với sự
ủng hộ và hỗ trợ nhiệt tình của những người yêu chuộng hòa bình trên khắp năm
châu, những người bạn Nga, người bạn Xô-viết … mãi mãi là một biểu tượng đẹp
của lương tri, của ý chí và khát vọng hòa bình, của tình đoàn kết vô biên. Bài
học của quá khứ, bài học từ cuộc chiến sẽ mãi còn được các thế hệ tiếp theo,
không chỉ là thế hệ trẻ Việt Nam
mà là các thế hệ trẻ trên toàn thế giới rút ra và chiêm nghiệm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét