Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

“Sẽ tập trung xây dựng Luật TNMT biển và hải đảo”


Normal
0

false
false
false

MicrosoftInternetExplorer4

st1:*{behavior:url(#ieooui) }

/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:”Table Normal”;
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:”";
mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt;
mso-para-margin:0in;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:”Times New Roman”;
mso-ansi-language:
mso-fareast-language:
mso-bidi-language:}

Năm 2012 đã
đánh dấu mốc quan trọng trong lĩnh vực biển, đảo với việc ban hành Luật Biển
Việt Nam, hoàn thành giai đoạn 1 của Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản
lý tài nguyên-môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020… Song, để
biến biển đảo trở thành mũi nhọn trong việc phát triển kinh tế, chính trị…
thì vẫn còn nhiều việc phải làm.

Trong cuộc
trò chuyện đầu xuân Quý Tỵ mới với phóng viên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học
Nguyễn Văn Cư (Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam) nhấn mạnh,
trong năm nay sẽ tập trung trí tuệ, lực lượng để xây dựng và trình Quốc hội
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

  Ông Nguyễn
Văn Cư: “Chúng tôi thiếu nguồn nhân lực am hiểu về biển đảo.”
- Thưa Tổng cục trưởng, biển đảo là
một trong những lĩnh vực rất được dư luận quan tâm trong thời gian qua. Là cơ
quan quản lý tổng hợp về lĩnh vực này, năm qua, Tổng cục đã làm được những gì?

- Trong năm
qua, Tổng cục đã xây dựng và hoàn thiện một loạt các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan đến quản lý tổng hợp biển và hải đảo, như các Thông tư, Quyết
định, các phân vùng quy hoạch biển; triển khai, xây dựng Luật Tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo.

Bên cạnh
đó, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam
cũng có những đóng góp không nhỏ cho Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, nhất là chương về kinh tế biển.

Việc xây
dựng và hoàn thiện khung thể chế, văn bản quy phạm pháp luật là rất quan trọng,
nó sẽ là chìa khóa để cho các ngành quản lý, phát triển biển, đảo một cách bền
vững.

Ngoài ra,
chúng tôi cũng tích cực triển khai Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý
tài nguyên-môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Đây là một đề
án lớn của Chính phủ mà có nhiều bộ, ngành và địa phương thực hiện từ năm 2007.

Các dự án
trong Đề án cũng đã điều tra, đánh giá, nắm bắt được các điều kiện tự nhiên,
các tai biến tự nhiên cũng như các tài nguyên thiên nhiên, môi trường các vùng
biển và hải đảo đến độ sâu 100m. Hiện, chúng tôi đang triển khai để đánh giá
điều kiện địa chất những công trình, tài nguyên khoáng sản đáy biển ở độ sâu
lớn hơn.

Chúng tôi
cũng đã phối hợp với các đơn vị Hải quân để đo đạc một cách chi tiết về địa
hình đáy biển, cửa sông, ven biển, các vùng biển để phục vụ quốc phòng và giao
thông vận tải cũng như phát triển kinh tế biển.

Qua đó,
chúng tôi đã xây dựng được bước đầu cơ sở dữ liệu về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên về các số liệu điều tra cơ bản các vùng biển cũng như hải
đảo của đất nước từ trước đến nay để phục vụ hoạch định chính sách, quy hoạch
lãnh thổ, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.

Trong năm
2012, chúng tôi đã tiến thêm một bước trong công tác tuyên truyền về quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo Việt Nam. Bên cạnh Tuần lễ Biển và Hải
đảo Việt Nam được tổ chức tại thành phố Vũng Tàu, chúng tôi còn mở nhiều lớp
tập huấn, sản xuất một số bộ phim khoa học, tài liệu về biển đảo để tuyên
truyền trên các kênh truyền hình, phổ biến ra nước ngoài…

Nhìn chung,
từ khi thành lập năm 2008 đến nay, năm 2012 có thể là năm thành công nhất và
tập trung nhiều dự án quan trọng của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam.

- Qua điều tra các vùng biển, ông có
nhận định gì về tiềm năng kinh tế biển Việt Nam?

- Qua kết
quả điều tra đến độ sâu 100 m nước thì vùng biển nước ta rất giàu một số loại
tài nguyên khoáng sản. Trước hết là các vật liệu xây dựng, kim loại nặng (trong
đó có Titan, zicon, vàng và một số kim loại quý hiếm khác…).

Tuy nhiên,
hiện chúng ta mới chỉ điều tra, đánh giá ở tỷ lệ 1/500.000 nên nếu phục vụ khai
thác thì cần có điều tra chi tiết hơn.

Hiện, chúng
tôi cũng tiến hành phối hợp với Nga để nghiên cứu về khí Hydrate (băng cháy) và
các khoáng sản đáy biển…

Nhìn chung
tiềm năng kinh tế biển của Việt Nam
là rất lớn.

- Thưa Tổng cục trưởng, trong năm
2013, trọng tâm hoạt động của Tổng cục là gì?

- Trong năm
2013, chúng tôi sẽ tập trung lực lượng, trí tuệ để xây dựng được Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Đây cũng là
một đạo luật cơ bản và không chồng chéo với Luật Biển Việt Nam. Luật Biển Việt Nam phân định
vùng biển là chính, phần phát triển kinh tế biển đề cập đến rất sơ bộ. Nhưng
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo sẽ đi sâu vào vấn đề để quản lý,
khai thác hợp lý các vùng biển, bao gồm các dạng tài nguyên biển và bảo vệ môi
trường biển, phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển.

Chúng tôi
cũng sẽ triển khai đồng bộ giai đoạn 2 của Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và
quản lý tài nguyên – môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. Hiện
nay đã tập hợp đuợc 26 dự án được chọn lọc từ gần 300 dự án mà các bộ, ngành,
địa phương đăng ký để xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Ngoài ra,
Tổng cục sẽ tăng cường tuyên truyền về quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững
biển và hải đảo Việt Nam.
Tôi cho rằng, đây là nhiệm vụ thường xuyên và cần phải làm đồng bộ hơn, sâu
rộng hơn và có những dấu ấn hơn trong năm 2013.

- Đâu là điểm khó nhất đối với Tổng
cục Biển và Hải đảoViệt Nam khi thực hiện nhiệm vụ của mình, thưa ông?

- Sau 5 năm
hoạt động, điều khó nhất mà Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam gặp phải đó
chính là việc nhận thức của cán bộ về vấn đề quản lý tổng hợp biển và hải đảo
chưa được rõ nét bởi trước đây việc quản lý biển được chia cho các ngành.

Cần phải
hiểu rằng, quản lý tổng hợp ở đây không làm thay các quản lý theo các chuyên
ngành, nó chỉ có vai trò điều phối các quan hệ và giải quyết các mâu thuẫn
trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên biển, đảo làm sao cho hợp lý. Bản
thân tài nguyên biển là tài nguyên chia sẻ, nhiều đối tượng có thể khai thác
cùng một lúc, sử dụng cho nhiều mục đích.

Ngoài ra,
chúng tôi còn thiếu nguồn nhân lực am hiểu về biển và đặc biệt là người có
trình độ cao về quản lý, điều tra nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ
biển cho dù hiện nay Tổng cục đã có gần 700 cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động. Hiện, Tổng cục đang cố gắng mở các lớp đào tạo cho các cán bộ
quản lý để dần khắc phục vấn đề này.

Bên cạnh
đó, việc thiếu hụt về cơ sở vật chất, kỹ thuật, cơ chế đặc thù cho người làm
công tác biển đảo cũng là một trong những rào cản lớn cho sự phát triển của
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam.

- Xin cảm ơn Tổng cục trưởng!



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét