Ông Nguyễn Văn Luông
trong một lần tiếp Thủ tướng Phan Văn Khải về thăm tỉnh Sông Bé
Vùng "Tân Khánh B�
Trà" và làng Phước Thái xưa là cái nôi của nền võ học dân tộc, nhân dân ở đây
có truyền thống trọng nghĩa cứu giúp người bị nạn và đấu tranh chống cái ác, thời
niên thiếu Nguyễn Văn Luông rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ phu,
văn thân, chí sĩ xả thân vì nước. Chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân mất nước,
tinh thần đấu tranh bất khuất của ông cha, ông dần dần phát hiện ra rằng, dưới
ách thống trị của giặc ngoại xâm, nhân dân Việt Nam không phải chỉ có cam chịu
mà còn có sự vùng lên bất khuất, được biểu hiện qua các phong trào quần chúng
chống lại bạo quyền, bao gồm đông đảo các tầng lớp công nhân, nông dân đến người
tiểu thương ở các chợ, từ những người đạp xích lô đến các ký giả, nhà văn, từ
em bé bán báo đến học sinh, sinh viên… Tất cả những sự kiện ấy đã hun đúc trong
ông những hoài bão lớn lao, thôi thúc ông nối gót các tiền bối cách mạng.
Cách mạng Tháng 8 thành công đã thực sự giải phóng cho nhân
dân ta thoát khỏi cuộc đời nô lệ của ngưởi dân mất nước. Không khí sôi sục của
cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, những ngày độc lập ngắn ngủi diễn ra trên quê
hương, rồi giặc Pháp mưu toan trở lại, cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân
ta bắt đầu với những chết chóc, tàn phá diễn ra khắp nơi. Cùng với hàng ngàn
người con đất Thủ, ông tham gia chiến đấu bảo vệ làng mạc, bảo vệ quê hương v�
lập nhiều chiến công xuất sắc.
Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược nước
ta lần thứ hai, ông đã được Đảng phân công thực hiện nhiệm vụ trên nhiều lỉnh vực
từ dân vận, binh vận, lực lượng vũ trang… Ở mặt trận nào ông cũng thể hiện bản
lỉnh của người cán bộ đầu tàu gương mẫu được đồng đội và nhân dân tin yêu, ông
đã bị địch bắt tù đày qua nhiều nhà lao ở miền Nam. Bằng các chiến công dồn dập
mà đỉnh điểm là chiến thắng lừng lẩy tại Điện Biện Phủ, nhân dân ta đã đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ
được ký kết. Nhiều cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và cán bộ các cơ quan
dân – chính Đảng đều được tập kết ra Bắc. Ông nằm trong danh sách được địch
theo dõi rất sát tại điểm tập kết Cà Mau, nhưng bằng mưu trí của bản thân và tổ
chức cho nên danh sách ra đi nhưng con người ở lại theo sự phân công của Đảng.
Bước vào cuộc chiến đấu mới, kẻ thù lần này có tiềm lực mạnh
gấp nhiều lần thực dân cũ, địch đã trả thù người kháng chiến cũ, tiêu diệt
phong trào cách mạng miền Nam, chấp hành chỉ thị của cấp trên ông là một trong
những người đầu tiên huy động; tập hợp để xây dựng lại lực lượng vũ trang khu
Đông Nam bộ, trải qua các giai đoạn khó khăn, gian khổ, 1957- 1959, những năm
1969-1970, vào những thời điểm cam go của cách mạng, đồng chí với trọng trách
được giao từ tỉnh ủy, khu ủy trên nhiều chiến trường miền Đông Nam bộ đã cùng với
cán bộ, đảng viên tại các địa bàn công tác dựa vào dân để phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân; lãnh đạo quân dân đẩy mạnh các cuộc đấu tranh quân sự, chính
trị, binh vận đưa phong trào cách mạng vượt qua những chặng đường khó khăn, thử
thách, từng bước xây dựng phát triển lực lượng cách mạng, xây dựng thế tấn công
liên tục làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch trên chiến trường.
Hiệp định Paris đựơc ký kết (ngày 27-1-1973), đã tạo điều kiện
thuận lợi cho quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh giai phóng miền
Nam thống nhất đất nước. Nhưng với bản chất ngoan cố, xảo quyệt và hiếu chiến,
Mỹ ồ ạt viện trợ vũ khí, phương tiện chiến tranh và tiền bạc tiếp sức cho ngụy
quân, ngụy quyền thay quân Mỹ tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh, quân dân Thủ Dầu Một quyết định không mơ hồ ảo tưởng trước Hiệp
định Paris, quyết tâm giữ vững thành quả cách mạng, tạo thế và lực mới, kiên
quyết đánh bại các cuộc lấn chiếm của địch, giữ vững vùng giải phóng.
Chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô 1974-1975, từ cuối năm 1974,
Trung ương Cục quyết định giải thể tỉnh Tân Phú, giao huyện Tân Uyên, Phú Giáo
và Dĩ An về tỉnh Thủ Dầu Một. Đồng chí Nguyễn Văn Luông lúc này là Bí thư Tỉnh ủy
Tân Phú được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thay đồng chí Nguyễn Văn
Trung, Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên Thường vụ Khu ủy về Khu ủy miền Đông. Sau khi đảm
nhiệm cương vị mới ông chỉ đạo quân dân trong tỉnh chuẩn bị tài lực, vật lực,
tiếp tục tổ chức lực lượng tấn công trên toàn địa bàn tỉnh tiêu diệt và làm tan
rã hàng ngàn tên địch, phá hỏng bộ máy kìm kẹp của địch ở nhiều nơi, mở rộng
vùng giải phóng, tạo thời cơ cho chiến dịch 1974-1975 đi đến kết thúc thắng lợi.
Cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, là Khu ủy viên Khu ủy miền Đông, Bí thư Tỉnh ủy kiêm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng ông cùng với Ban chỉ đạo, chỉ huy tiền
phương lãnh đạo quân dân trong tỉnh nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách,
phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chủ lực và nhân dân trong tỉnh, liên tục tiến
công và nổi dậy, đánh chiếm toàn bộ các căn cứ quân sự, diệt và làm tan rã hoàn
toàn lực lượng quân ngụy, đập tan bộ máy ngụy quyền từ tỉnh đến huyện, xã, ấp,
giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, đồng chí Nguyễn Văn Luông được Đảng tín nhiệm giao giữ nhiều trọng trách:
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sông Bé (1976-1979); Trưởng
đoàn đại biểu Quốc hội khóa VI tỉnh Sông Bé (1976-1981); Bí thư Tỉnh ủy Sông Bé
(1980- 1992). Ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của tỉnh
Sông Bé.
Hơn 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Luông l�
tấm gương cao đẹp của một người cộng sản mẫu mực, thể hiện rõ tư duy độc lập,
sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao, nghiêm túc; luôn tin tưởng vào sức mạnh
của quần chúng nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; phấn đấu không mệt mỏi
vì sự nghiệp cách mạng của tỉnh nhà, góp phần xây dựng Đảng bộ Bình Dương ngày
càng lớn mạnh. Ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao quý:
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến
hạng nhất; Huân chương Quân công hạng nhất; Huân chương giải phóng hạng nhất,
nhì, ba…
Do tuổi cao sức yếu, ông từ trần ngày 11-10-2008 tại quê
hương Bình Dương, thọ 84 tuổi.
HỒ THỊ NAM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét